Tại sao có người tín Phật mà lại không có phước báo?
Có người thắc mắc, tại sao có người thành tâm kính Phật mà lại không có phước báo, không được bảo hộ? Phải chăng Phật Tổ không linh?
Thế gian là cõi mê nên có rất nhiều việc chúng ta không thể nhìn thấy hết nhân duyên của nó, từ đó mà có tâm nghi ngờ, cho rằng Trời cao không có mắt, hay Phật không bảo hộ cho người thiện lương. Câu chuyện dưới đây có thể giúp chúng ta giải chỗ mê này.
Nội dung chính
Hai cha con đều tín Phật
Trong “Tùng ẩn mạn lục” có chép lại một câu chuyện kể rằng, vào thời nhà Thanh, ở Ngô Giang, Giang Tô, có người tên là Khoái Lan Chu, là một cư sĩ tại gia. Hàng ngày đều dậy sớm tụng “Kinh Kim Cương”; đến tối lại ở trong Phật đường được bố trí đặc biệt ở trong nhà, thắp một ngọn đèn lưu ly, ngồi xếp bằng trên bồ đoàn (đệm hình tròn làm bằng lá hương bồ).
Nói về cuộc sống hàng ngày thì ông giống như một nhà sư tu khổ hạnh. Trong 20 năm ông không vào phòng ngủ. Trong nhà không sát sinh, thường hay phóng sinh, ăn chay. Ngày lễ ngày tết, chuẩn bị các loại đậu, trái cây, rau củ để tế tổ; đối với người làm, tỳ nữ thì cho tiền để họ ra quán ăn bên ngoài ăn với nhau.
Khoái Lan Chu có một người con gái tên là Ấu Lan, tự Tố Quyên, được cha cảm hóa, cũng trở thành một người tín Phật; chưa bao giờ đeo đồ trang sức. Lúc hai mươi mấy tuổi, thề không lập gia đình. Nàng tín phụng nhất là Bạch Y Quan Âm Bồ Tát; cả ngày dâng hương niệm chú. Trong phòng nhang khói lượn lờ, giống như một ngôi chùa.
Người cha đột nhiên bị bệnh qua đời
Khi người thân, bạn bè của Khoái cư sĩ gặp khó khăn và nhờ ông giúp đỡ, họ đều nhận được sự hào phóng từ ông. Tuy nhiên, Khoái cư sĩ không tận sức để lo cho cơ nghiệp, gia đạo càng ngày càng đi xuống. Về sau có lúc quan phủ đến giục nộp thuế, khách nhân đến đòi nợ, việc nhà lu bu đủ chuyện, khiến một người quen cuộc sống an dật như ông cảm thấy rất phiền não; bái Phật niệm kinh cũng bị ảnh hưởng lớn, rồi ưu buồn lâu ngày thành bệnh. Sau đó trên lưng ông xuất hiện một vết loét dài. Các thầy thuốc cũng bó tay, sau một thời gian thì qua đời.
Con gái Ấu Lan chứng kiến cái chết của cha, dường như đau đến không muốn sống nữa. Những người thân thích nói: “Cha cô tín Phật thành kính như vậy xưa nay hiếm, nhưng trời cao không có bảo hộ cho ông ấy một chút nào; Phật Tổ rốt cuộc còn linh hay không vậy?”
Nghe những lời này, Ấu Lan càng thêm bi thương ưu buồn. Vì vậy nàng bị đau tim, mỗi ngày chỉ có thể uống một chút nước trà, cơm không thể ăn được. Không lâu sau thì nàng gầy trơ xương, thân hình tiều tụy. Người nhà đều thầm nói: “Tiểu thư e rằng không sống được lâu nữa”.
Sống lại đầy kỳ diệu
Một ngày nọ, Ấu Lan khó khăn ngồi dậy, nói tỳ nữ chuẩn bị nước nóng. Tỳ nữ dùng chậu gỗ bưng nước đến. Nàng lại muốn họ phải đổi dùng chậu đồng, nói rằng: “Các chị không nên để cho đồ bẩn đụng đến tôi. Tôi sau khi rửa mặt, rửa tay xong, sẽ tự mình đi đến thế giới Liên Hoa để diện kiến Bồ Tát”.
Ấu Lan sau khi lau rửa xong, liền ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở cũng dần dần yếu đi. Không lâu sau, nàng lại mở mắt ra dặn dò người nhà: “Sau khi tôi chết, phải dùng cái khám (cái khám dùng để thờ Phật) để thi thể của tôi vào, đặt ở trong phòng, không nên dùng quan tài. 7 ngày sau tôi sẽ sống lại”. Nói xong thì qua đời.
Người nhà cứ theo lời dặn dò của nàng mà làm, giữ thi thể ở trong phòng. Liên tiếp 7 ngày, thi thể của nàng cũng không bị cứng lại; sắc mặt ngược lại còn dần dần chuyển hồng; sờ vào thì thấy thân thể của nàng vẫn ấm. Đến nửa đêm ngày thứ 7, người nhà đột nhiên nghe thấy trong khám có tiếng động; trong không trung vang lên âm thanh du dương. Mọi người đều cảm thấy rất kỳ quái, vội vàng mở khám ra, thấy Ấu Lan đã sống lại.
Nàng hợp thập thầm niệm: “Thiện tai, thiện tai! Phật của tôi không ở Tây Thiên, mà ở trong lòng mọi người. Nói với mọi người, các chúng sinh, không thể không tin có địa ngục, thiện ác báo ứng, như hình với bóng”. Mọi người vội xin nàng nói về những gì đã nghe đã thấy mấy ngày qua.
Xuống địa ngục thấy nhân quả báo ứng
Ấu Lan liền kể một số điều chân thực về nhân quả báo ứng mà nàng đã thấy ở dưới địa ngục:
“Tôi sau khi chết, không nhìn thấy đường, chỉ thấy cát vàng bao phủ, mờ tối. Vì vậy tôi liền mặc niệm ‘Diệu Pháp Liên Hoa Kinh’; chợt cảm thấy trời đất sáng tỏ, giống như ban ngày. Sau đó nhìn thấy cờ tiết, bay từ từ trên mây hạ xuống, cho đến khi chúng gần chạm đất.
Ở trong ánh sáng rực rỡ đó, tôi thấy một thân vàng cao một trượng sáu xích (16 thước, hơn 5 mét), mặt mũi hiền hòa, tôi biết đó chính là Quan Thế Âm. Vì vậy vội quỳ xuống đất, thỉnh cầu giúp đỡ, thoát ly biển khổ.
Quan Âm nói: ‘Con không nên tới nơi này, mau trở về đi thôi!’. Sau đó nhúng cành dương liễu vào tịnh bình và vẩy xuống. Vừa vẩy tới người tôi, chợt cảm thấy trong lòng mát rượi, thông suốt, đại ngộ.
Tôi khẩn cầu: ‘Cha con giờ đang ở đâu? Thỉnh Bồ Tát cho con nhìn một chút’.
Quan Âm nói: “Cha con nay đang hưởng phúc ở tầng trời thứ hai, phúc đầy lại thăng lên tầng trời khác. Con phải nỗ lực tu thành chính quả, mới có thể gặp lại cha. Nếu không, người và trời cách biệt, vĩnh viễn không thể tụ hội”. Tôi nghe xong liền khóc nức nở.
Mượn danh Phật để kiếm tiền
Quan Âm nói: ‘Không nên như vậy. Vì con đã đến đây, có thể nhờ thị giả Chiên Đàn dẫn con đi tham quan địa ngục một chút; để thế nhân biết được rằng làm các loại tội ác sẽ chịu nhiều báo ứng, hậu quả là do nhân từ trước; ở nhân gian làm việc ác sẽ phải chịu phạt dưới địa ngục, tuyệt không sai khác’. Thị giả Chiên Đàn từ trong ánh sáng bay xuống, dẫn tôi đi vào âm tào địa phủ.
Tôi được dẫn đến yết kiến Diêm La Vương; hầu hạ bên điện là đủ loại quỷ tốt đầu trâu mặt ngựa. Những người này mặt mũi dữ tợn, giống như những bức vẽ ở thế gian. Thị giả Chiên Đàn chuyển lời của Quan Thế Âm đến Diêm La Vương. Diêm La Vương cung kính lắng nghe, lập tức phái quỷ tốt dẫn đường, lấy chìa khóa ra mở một cánh cửa địa ngục cho tôi xem.
Trong mỗi nhà ngục tôi đều nhìn thấy 1, 2 người mà tôi biết. Có bà Tiết sống ở cửa Bắc của Ngô Giang, hàng ngày rất chăm chỉ niệm Phật. Người ở địa phương gọi bà là ‘thiện nhân’, thường đến chỗ của tôi để quyên tiền. Nhưng bà lại bị đả nhập vào địa ngục hàn băng; lạnh đến mức cả người run rẩy không ngừng.
Tôi hỏi: ‘Bà ấy là người tín Phật, vì sao lại phải chịu khổ như vậy?’ Quỷ tốt nói: ‘Người này lòng tham quá lớn, mượn danh Phật để đi khắp nơi hóa duyên; tiền tài kiếm được thì chiếm làm của riêng. Bà ta còn cho vay cắt cổ hại người nghèo khổ, cho nên mới bị khổ nạn này’.
Đố kỵ, tàn độc
Tiếp theo lại đi đến một nơi, thấy chị dâu – người năm đó thủ tiết – hai chân đang bị đóng vào cánh cửa, đau đớn không thể tả. Tôi lại hỏi: ‘Chị đến đây khi nào? Phạm tội gì mà phải chịu tội khổ đến mức này?’
Quỷ tốt thay chị ấy nói: ‘Cô ta khi còn sống có tâm đố kỵ rất nặng, không muốn chồng lấy thiếp; khiến gia đình chồng không có con nối dõi. Còn đối với tỳ nữ rất tàn khốc, đánh chửi la mắng, không từ một việc gì’.
Tôi lại nói: ‘Tôi biết chị ấy không ăn thịt trâu; đến nơi nào có chùa cũng đều thắp hương. Như vậy cũng không thể bù đắp cho tội lỗi sao?’
Quỷ tốt nói: ‘Đó chỉ là việc thiện nhỏ ở bề ngoài, không đủ để bù đắp cho tội nghiệt’.
Tham lam của cải
Về sau lại đi đến cây cầu Nại Hà. Cầu cao mấy chục trượng, mặt cầu rộng chừng mấy tấc, vô tình rơi xuống thì sẽ bị rắn độc trong sông cắn. Lại thấy một người anh họ của tôi ở trong sông. Tôi thấy rất lạ vì mấy ngày trước anh ấy còn đến nhà hỏi thăm bệnh tình của tôi”.
Lúc này có một người giúp việc nói: “Ông ấy ngày hôm qua vừa mới bị bệnh và qua đời. Nói ra thì cũng là ác hữu ác báo. Ngày đó ông ấy lấy lý do là đi thăm bệnh nhân, nhưng lại vơ vét sạch mấy đồ nữ trang, của cải trong phòng của tiểu thư.”
Nhân quả báo ứng công bằng
Ấu Lan lại nói: “Còn có một chuyện, tôi ở địa ngục còn thấy dì Trương ở cửa Nam vì sanh khó mà chết; kể cả đứa bé cũng chìm nổi ở trong hồ máu. Tôi liền khẩn cầu thị giả Chiên Đàn cứu cô ấy, nói rằng dì Trương từng trong một đêm mưa tuyết, cứu sống hai mẹ con ăn mày sắp chết rét. Thị giả vì vậy đã ném một đóa liên hoa về phía cô ấy; mẹ con cô ấy liền leo lên bờ bên kia”.
Một người phụ nữ trong đám đông lập tức quỳ xuống bái lạy nói: “Tôi chính là bảo mẫu của dì Trương ở cửa Nam. Bà chủ của tôi đêm qua khó sanh mà chết, nay đột nhiên sống lại, nói là tiểu thư ở âm gian đã cứu bà, hôm nay hai mẹ con đều bình an, nói tôi tới đây để khấu tạ tiểu thư!”
Khi mọi người nghe Ấu Lan nói về những điều nàng đã thấy ở địa ngục, họ đều không khỏi kinh ngạc và cũng hết sức cảm khái. Mọi người đều phát nguyện hướng thiện. Ấu Lan sau khi hồi phục, lại sống thêm 36 năm, vẫn rất thành tâm kính Phật.
Nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp đan xen phức tạp, nên một người thực tâm tín Phật mà lại không có phước báo thì chắc hẳn còn có nguyên nhân sâu xa đằng sau.
Theo Aboluowang